Bệnh trĩ có tỉ lệ mắc cao trong cộng đồng, là một bệnh lành tính nhưng ảnh hưởng nhiều tới sức khỏe, chất lượng cuộc sống, công việc hàng ngày của người bệnh. Có nhiều phương pháp điều trị bệnh trĩ. Chỉ định điều trị phụ thuộc vào tổn thương, mức độ bệnh, điều kiện trang bị và kinh nghiệm của thầy thuốc.
1. BỆNH TRĨ LÀ GÌ?
Trĩ là tổ chức bình thường ở ống hậu môn, là một phần của hệ thống mạch máu của vùng hậu môn trực tràng. Các búi trĩ là các đám rối tĩnh mạch. Ở trạng thái sinh lí bình thường, các búi mạch trĩ cùng hệ thống niêm mạc, phần mềm xung quanh duy trì trạng thái khép kín của ống hậu môn và kiểm soát việc đi đại tiện.
Khi các đám rối tĩnh mạch này bị căng dãn quá mức thì gọi là bệnh trĩ.
2. NGUYÊN NHÂN , CÁC YẾU TỐ THUẬN LỢI
Nguyên nhân gây bệnh trĩ đến nay vẫn chưa được xác định rõ ràng. Tuy nhiên người ta thấy rằng có một số yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng mắc bệnh như:
Táo bón mạn tính: việc rặn thường xuyên khi đi ngoài làm áp lực trong ống hậu môn tăng cao, gây ra ứ trệ máu trong các đám rối tĩnh mạch trĩ, tổn thương các dây chằng nâng đỡ búi trĩ.
Tăng áp lực trong ổ bụng: ho nhiều, kéo dài, lao động nặng, công việc yêu cầu đứng lâu, ngồi nhiều, tiểu khó do U phì đại tuyến tiền liệt….. làm tăng áp lực trong ổ bụng kéo dài, cản trở sự trở về của dòng máu tĩnh mạch vùng hậu môn làm bệnh trĩ dần xuất hiện.
Phụ nữ mang thai: gây cản trở dòng máu tĩnh mạch, ứ máu ở các đệm hậu môn gây triệu chứng bệnh trĩ.
Một số yếu tố khác: chế độ ăn ít xơ, ăn nhiều gia vị có tính kích thích, cay nóng, dùng nhiều đồ uống có cồn.
3. TRIỆU CHỨNG BỆNH TRĨ
Các triệu chứng chính của bệnh trĩ gây khó chịu, khiến bệnh nhân phải đến khám là: chảy máu, sa búi trĩ, đau vùng hậu môn.
Chảy máu: máu đỏ tươi, có thể chảy thành tia “như cắt tiết gà” hoặc nhỏ giọt xuống bồn cầu hoặc có thể chỉ dính vào giấy vệ sinh sau khi đại tiện. Đây là triệu chứng thường gặp, chiếm khoảng 50 – 75% các trường hợp đến khám tuy nhiên lại không đặc hiệu, có thể gặp trong các bệnh lí khác của đường tiêu hóa nói chung và vùng hậu môn trực tràng nói riêng. Vì vậy cần đến khám tại các cơ sở y tế để có chẩn đoán rõ ràng, chính xác, tránh bỏ sót tổn thương.
Sa búi trĩ: là hậu quả của sự tổn thương các tổ chức liên kết nâng đỡ búi trĩ, dẫn đến các búi trĩ sa ra ngoài khi gắng sức, khi đại tiện hoặc thậm chí sa ra thường xuyên khi bệnh diễn biến nặng.
Đau vùng hậu môn: chiếm khoảng 15%, do các đợt trĩ cấp, tắc mạch búi trĩ, sa trĩ nghẹt. Mức độ có thể từ tức nặng, đau rát cho đến đau dữ dội trong các trường hợp nghẹt búi trĩ.
Các triệu chứng khác: tiết dịch, ẩm ướt, ngứa vùng hậu môn.
4. PHÂN LOẠI BỆNH TRĨ:
a. Theo giải phẫu: Đường lược là mốc giải phẫu, trĩ được phân thành trĩ nội và trĩ ngoại, trĩ hỗn hợp.
Trĩ nội: nằm phía trên đường lược, chia làm 4 độ
Độ 1: chỉ quan sát được khi thăm khám bằng ống soi hậu môn, búi trĩ lồi vào lòng ống hậu môn nhưng chưa sa ra ngoài.
Độ 2: búi trĩ sa ra ngoài lỗ hậu môn khi đại tiện nhưng tự co vào được khi đại tiện xong.
Độ 3: búi trĩ sa ra ngoài lỗ hậu môn khi đại tiện nhưng không tự co vào được, phải dùng tay đẩy vào ống hậu môn.
Độ 4: Búi trĩ sa liên tục ở ngoài ống hậu môn, không đẩy vào được.
Trĩ ngoại: nằm dưới đường lược.
Trĩ hỗn hợp: khi trĩ nội và trĩ ngoại phát triển và kết nối lại với nhau thì được gọi là trĩ hỗn hợp.
Hình 1: Phân độ trĩ nội
b. Theo thể bệnh
Thể búi: khi các búi trĩ ở cạnh nhau còn đứng riêng rẽ, chưa liên kết với nhau, giữa các búi trĩ còn phần tổ chức lành.
Thể vòng: khi các búi trĩ chính và các búi trĩ phụ cùng phát triển, liên kết với nhau thành vòng hoặc chiếm trên ¾ chu vi ống hậu môn.
Biến chứng bệnh trĩ
Trĩ tắc mạch: là biến chứng thường gặp nhất, với triệu chứng điển hình là đau cấp tính vùng hậu môn. Trĩ ngoại tắc mạch biểu hiện bằng một khối tím, ấn đau, nằm dưới da vùng rìa hậu môn. Trĩ nội tắc mạch ít gặp hơn, dưới dạng các cục máu đông dưới niêm mạc sờ thấy khi thăm khám.
Sa trĩ nghẹt: do búi trĩ nội sa ra ngoài, co bóp làm nghẹt, phù nề, thiếu máu nuôi dưỡng dẫn dến hoại tử, viêm, chảy máu…
Hình 2: Biến chứng bệnh trĩ (A. Trĩ tắc mạch, B. Sa trĩ nghẹt)
5. CHẨN ĐOÁN BỆNH TRĨ:
a. Chẩn đoán xác định
Chẩn đoán xác định bệnh trĩ thường đơn giản, với các triệu chứng lâm sàng điển hình như: chảy máu, sa búi trĩ, đau vùng hậu môn. Khám lâm sàng có nhìn thấy tổn thương vùng hậu môn, thăm trực tràng bằng ngón tay đánh giá, soi ống hậu môn quan sát búi trĩ, soi đại trực tràng để chẩn đoán phân biệt.
b. Chẩn đoán phân biệt bệnh trĩ:
Bệnh trĩ là một bệnh lành tính, dễ chẩn đoán. Tuy nhiên tại vùng hậu môn trực tràng có nhiều bệnh lí khác có cùng triệu chứng nhưng lại nguy hiểm hơn rất nhiều. Vì vậy nếu không được chẩn đoán và phân biệt đúng dễ dẫn tới điều trị nhầm lẫn, làm bệnh nặng thêm, mất cơ hội điều trị.
Phân biệt với các bệnh có đại tiện ra máu tươi: u đại trực tràng, viêm loét đại trực tràng, polip trực tràng, ống hậu môn…
Phân biệt với các bệnh có khối sa vùng hậu môn: sa trực tràng, polip trực tràng, ống hậu môn.
Phân biệt với các bệnh có đau vùng hậu môn: nứt kẽ hậu môn, áp xe cạnh hậu môn…..
6. ĐIỀU TRỊ BỆNH TRĨ
a. Nguyên tắc điều trị
Trĩ được điều trị khi nó gây trở ngại hoặc có biến chứng. Không có trĩ mà chỉ có người bệnh trĩ. Điều đó có nghĩa là phải quan tâm thăm khám toàn diện, đánh giá các bệnh lí kèm theo ở toàn thân nói chung và vùng hậu môn trực tràng nói riêng.
Bệnh trĩ có nhiều mức độ, nhiều hình thái tổn thương khác nhau, do vậy phải nắm rõ chỉ định, chống chỉ định của từng phương pháp điều trị và chọn phương pháp thích hợp nhất với từng người bệnh, thậm chí kết hợp các phương pháp.
Phải điều trị đồng thời các rối loạn được coi là yếu tố thuận lợi của bệnh trĩ như chế độ ăn uống sinh hoạt lao động, bệnh toàn thân như bệnh phổi tắc nghẽn, u phì đại tuyến tiền liệt, táo bón…..
Các phương pháp điều trị bệnh trĩ được chia thành 3 nhóm: điều trị nội khoa, điều trị thủ thuật và điều trị phẫu thuật.
b. Điều trị nội khoa
Chỉ định: trĩ độ 1, độ 2, không có biến chứng.
Biện pháp điều trị bao gồm: điều chỉnh chế độ ăn uống sinh hoạt lao động hạn chế các yếu tố nguy cơ, vệ sinh vùng hậu môn, các thuốc tăng trương lực tĩnh mạch và bảo vệ thành mạch (MPFF), giảm đau, chống viêm, chống táo bón.
Chế độ ăn uống sinh hoạt: ăn nhiều rau quả, chất xơ, uống nhiều ước. Không ăn các chất cay nóng, caffeine, đồ uống có cồn. Tập thể dục, nghỉ ngơi hợp lí, có thời gian giải lao giữa giờ trong giờ làm việc.
Một số thuốc điều trị:
Thuốc tăng trương lực tĩnh mạch và bảo vệ thành mạch (ví dụ: Daflon 500mg, 1000mg....): dùng 2 – 3g/ ngày chia 2 – 3 lần.
Thuốc điều trị táo bón: ví dụ Duphalac, Forlax, Laovelac…. có tác dụng làm mềm phân, giảm triệu chứng bệnh trĩ.
Thuốc điều trị tại chỗ: các gel bôi (ví dụ Hemoclin, Presto Gel, CotriPro Gel….), các thuốc đặt dạng viên đạn (Proctolog, Healit Rectan……) tăng sức bền thành mạch, chống viêm, giảm phù nề tại chỗ do đó làm giảm triệu chứng bệnh.
c. Điều trị thủ thuật
Chỉ định: trĩ độ 1, độ 2 chảy máu
Mục đích điều trị: điều trị chảy máu, sa trĩ
Ưu nhược điểm
Ưu điểm: ít đau, có thể làm nhiều lần
Nhược điểm: tỷ lệ thành công thấp, dễ tái phát, dễ gặp các biến chứng viêm loét niêm mạc, chảy máu, hẹp hậu môn…..
Các thủ thuât thường dùng: tiêm xơ, thắt vòng cao su, quang đông hồng ngoại, tạo hình mô trĩ bằng laser
Hình 3: Điều trị trĩ bằng năng lượng laser
d. Điều trị phẫu thuật
Chỉ định: sa trĩ độ 3, 4, trĩ biến chứng nghẹt, tắc mạch, điều trị nội khoa, thủ thuật thất bại, phối hợp điều trị cùng bệnh lý khác ( rò hậu môn, nứt kẽ hậu môn)
Nguyên tắc phẫu thuật: có rất nhiều phương pháp phẫu thuật khác nhau nhưng áp dụng phương pháp phải đảm bảo nguyên tắc:
Chỉ định đúng giai đoạn, hình thái tổn thương, an toàn, khỏi bệnh không để lại di chứng, phù hợp với điều kiện kinh tế của người bệnh và chuyên môn của cơ sở y tế.
* Các phương pháp phẫu thuật cắt trĩ theo vòng:
- Phẫu thuật Whitehead (1882), phẫu thuật Toupet (1965): cắt toàn bộ khoanh niêm mạc ống hậu môn kèm theo tổ chức trĩ, là phẫu thuật triệt để nhưng gây tổn hại rất lớn tới ống hậu môn, làm mất khả năng tự chủ, chảy dịch nhiều, hẹp hậu môn….. hiện nay ít áp dụng.
- Phẫu thuật Longo (1993): can thiệp trên đường lược nên ít đau. Phẫu thuật này cắt 1 khoanh niêm mạc trực tràng khoảng 3 cm bằng máy cắt nối tròn để kéo búi trĩ vào trong và cắt nguồn mạch đến búi trĩ.
Hình 4: Phẫu thuật cắt trĩ phương pháp Longo
* Các phương pháp cắt trĩ theo từng búi:
- Phẫu thuật Milligan – Morgan (1937): cắt bỏ riêng biệt từng búi trĩ, để lại cầu da niêm mạc và niêm mạc giữa các búi trĩ. Tỉ lệ tái phát thấp (5%).
- Phẫu thuật Ferguson (1959): cắt bỏ các búi trĩ riêng biệt, sau đó khâu kín lại diện cắt ở hậu môn da – da, niêm mạc - niêm mạc nên còn gọi là cắt trĩ kín. Phẫu thuật này nhanh liền sẹo, chăm sóc vết thương đơn giản hơn, ít đau hơn. Tuy nhiên khó áp dụng với trĩ quá lớn, có thể áp xe hậu môn sau mổ do khâu kín vết thương.
Hình 5: Phẫu thuật cắt trĩ phương pháp Ferguson
* Phẫu thuật triệt mạch trĩ dưới hướng dẫn Siêu âm Doppler
Biến chứng sau phẫu thuật: Chảy máu sau mổ, bí tiểu, táo bón, hẹp hậu môn, áp xe hậu môn, đại tiện mất tự chủ.
Điều trị sau phẫu thuật: kháng sinh, giảm đau chủ động, chống viêm, thuốc tăng cường trương lực tĩnh mạch và bảo vệ thành mạch.
Bệnh viện Giao thông vận tải tự hào có đội ngũ chuyên gia giỏi trong lĩnh vực điều trị bệnh lý hậu môn – trực tràng. Khoa Ngoại tổng hợp của Bệnh viện áp dụng thành thạo nhiều phương pháp phẫu thuật trĩ như phương pháp Ferguson, Longo, cắt trĩ bằng máy Laser… với tỷ lệ phẫu thuật thành công rất cao nhờ kỹ thuật mổ và chăm sóc sau mổ tốt. Với các bệnh nhân chưa có chỉ định phẫu thuật, Bệnh viện theo dõi định kỳ và điều trị nội khoa theo các phác đồ cập nhật của Bộ Y tế và các hiệp hội chuyên môn quốc tế.
ThS. BS Trần Kiên – Khoa Ngoại tổng hợp